Email | Hòm thư góp ý | Liên hệ | Sơ đồ web
 
Khái quát chungTổng quanLịch sửDân cưTôn giáo và tín ngưỡngVăn hóaPhong tục tập quánNgôn ngữ văn họcLễ hội & trò chơi dân gianNghệ thuật biểu diễnTrang phụcKiến trúc, mỹ thuậtMón ăn, hoa, tráiChợĐơn vị hành chính
Thời Lê Trung Hưng - thời kỳ phân tranh (1533-1789) tồn tại trong 256 năm với diễn biến như sau: Nam triều - Bắc triều Trịnh - Nguyễn phân tranh

Nam triều - Bắc triều:  
Ðến đầu thập lục thế kỷ, bởi vì vua nhà Lê hoang dâm vô độ, bỏ việc triều chính đổ nát, cho nên trong nước loạn lạc, nhà Mạc nhân dịp này đoạt ngôi. Nhà Lê tuy đã mất ngôi, nhưng lòng người còn tưởng nhớ đến công đức của vua Thái Tổ và vua Thánh Tông, cho nên lại theo phò con cháu nhà Lê ở phía nam, lập ra triều đình riêng ở vùng Thanh Hóa, Nghệ An, để chống lại nhà Mạc. Đất nước chia ra thành hai miền: Nam triều và Bắc triều; hai bên đánh nhau trong năm sáu mươi năm trời.

 

Lê Trang Tông (1533-1548): 
 
Niên hiệu: Nguyên Hoà.
Năm năm sau, kể từ ngày bị Mạc Ðăng Dung giành ngôi vua, đến năm Quý Tỵ (1533), nhà Lê lại được dựng lên, mặc dù vua ở đất Lào nhưng đã có niên hiệu, các nhà chép sử gọi đó là thời Lê Trung Hưng.
 
Lê Trang Tông, huý Ninh, lại có tên nữa là Huyền, là con của Chiêu Tông, cháu ba đời của Thánh Tông. Mẹ là Phạm Thị Ngọc Quỳnh, người sách Cao Trì, huyện Thuỵ Nguyên (nay là Ngọc Lạc, Thanh Hoá). Khi Ðăng Dung bức Chiêu Tông về kinh thì Duy Ninh chạy về Thanh Hoá, mới 11 tuổi, Lê Quán ẵm chạy sang Ai Lao đổi tên là Huyền. Lúc đó tướng cũ là Chiêu Huân công Nguyễn Kim mật mưu khôi phục, sai Trịnh Duy Thuần cùng Trịnh Duy Sản triệu tập thần dân cũ, đón Duy Ninh lập nên làm vua, bấy giờ 19 tuổi.
 
Năm Quý Tỵ (1533), tháng Giêng, Duy Ninh lên ngôi ở đất Ai Lao, đặt niên hiệu là Nguyên Hoà, tôn đại tướng quân Nguyễn Kim làm Thượng phụ Thái sư Hưng quốc công chưởng nội ngoại sự, lấy hoạn quan là Ðinh Công làm thiếu uý hưng Quốc công... lấy trại Sầm Hạ làm nơi hành tại, giao kết với vua Ai Lao là Sạ Ðẩu để nhờ vả quân, lương mưu việc lấy lại nước, sai Trịnh Duy Liêu sang Minh tâu tố Ðăng Dung tiếm loạn, chiếm giữ kinh thành, ngăn trở đường tiến công. Nhà Minh sai Hàm Ninh hầu Cừu Loan làm Tổng đốc quan vụ, Binh bộ thượng thư Mao Bá Ôn làm Tham tán quân vụ, đem quân đánh Mạc.
 
Tháng 12 năm Canh Tý (1540), Nguyễn Kim kéo quân từ Ai Lao về nước đánh Nghệ An, nhiều hào kiệt theo về giúp Trung Hưng. Cuối năm Quý Mão (1543), nhà Lê chiếm được Tây Kinh, tướng Dương Chấp Nhất của nhà Mạc phải đầu hàng. Từ đó trong nước dần dần hình thành hai miền chịu sự khống chế của hai lực lượng đối lập: Thanh Hoá, Nghệ An trở vào thuộc vua Lê dưới sự giúp đỡ của các tướng họ Nguyễn rồi họ Trịnh (Nam Triều), vùng Bắc Bộ trong đó có cả kinh thành thuộc quyền Mạc (gọi là Bắc Triều). Từ đó bắt đầu một cuộc nội chiến tàn khốc kéo dài gần 50 năm (1545-1592) gọi là nội chiến Nam-Bắc triều. Năm Quý Tỵ (1545), Nguyễn Kim đem quân tiến đánh Sơn Nam, đến huyện Yên Mô thì bị hàng tướng của Mạc là Dương Chấp Nhất đánh thuốc độc giết chết. Con rể Nguyễn Kim là Trịnh Kiểm nắm giữ binh quyền, tiếp tục sự nghiệp tranh chấp với nhà Mạc. Từ đó họ Trịnh thế tập nắm giữ binh quyền, mở đầu thời kỳ “Vua Lê chúa Trịnh” sau này... Trịnh Kiểm có toàn quyền định đoạt việc quân ở ngoài cũng như việc nội triều, tất thẩy đều tự quyết sau mới tâu với vua.
 
Năm Bính Ngọ (1546), Trịnh Kiểm lập hành tại vua Lê ở Vạn Lại (Thọ Xuân, Thanh Hoá). Lấy danh nghĩa phù Lê diệt Mạc, nhiều hào kiệt, danh sĩ đương thời lại tìm vào Thanh Hoá như Lương Ðắc Bằng, Phùng Khắc Khoan.
 
Năm Mậu Thân (1548), Lê Duy Ninh mất, thọ 34 tuổi, ở ngôi 16 năm, quần thần dâng tên hiệu Lê Trang Tông, Trịnh Kiểm cho lập Thái tử là Duy Huyền lên nối ngôi.
 
 ♦ Lê Trung Tông (1548-1556): 
 

Niên hiệu: Thuận Bình.
Tên thật là Huyên con lớn của Lê Trang Tông. Tính tình khoan rộng, thông suốt, có mưu lược đế vương. Năm 1548 Trang Tông mất, Huyên được lập lên nối ngôi khi mới 15 tuổi, lấy hiệu là Trung Tông. Công việc trong triều đều giao cho Lượng quốc công Trịnh Kiểm quyết định. Năm Quý Sửu (1553) vua dời hành tại đến xã Yên Trường (trên tả ngạn sông Chu, thuộc Thọ Xuân Thanh Hoá), bản doanh của Trịnh Kiểm, năm sau, Giáp Dần (1554), lại dời đến xã Biện Thượng (tức Bồng Trung, huyện Vĩnh Lộc, trên sông Mã) là nơi Trịnh Kiểm ở với mẹ khi còn nhỏ. Cũng từ năm đó nhà Lê bắt đầu đặt chế khoa để chọn nhân tài, kỳ thi năm Giáp Dần (1554) lấy đỗ 5 đệ nhất giáp chế khoa xuất thân và 8 người đệ nhị giáp đồng chế khoa xuất thân. Vì quan niệm nhà Lê là chính thống, lúc đó nhiều nhà Nho dự thi và làm quan với nhà Lê như Ðinh Bạt Tuy, Chu Quan Trú... Nhà Lê cũng thu hút được một số tướng giỏi như Lê Bá Ly, Nguyễn Khải Khang, Nguyễn Thiến, Lê Khắc Thận... bỏ nhà Mạc vào phò giúp, nên thế lực ngày càng mạnh.
 
Tháng Giêng năm Bính Thìn (1556) vua băng hà khi mới 22 tuổi, không có con nối, Trịnh Kiểm cùng với các đại thần sai người tìm con cháu họ Lê lập nên.
 
 ♦ Lê Anh Tông (1556-1573): 

 
Niên hiệu:
- Thiên Hữu (1557);
- Chính Trị (1558-1571);
- Hồng Phúc (1572-1573).
 
Lê Anh Tông tên huý là Duy Bang, là dòng dõi nhà Lê. Trước đó, anh thứ hai của Lê Thái Tổ tên là Trừ, Trừ sinh ra Khang, Khang Sinh ra Thọ, Thọ sinh ra Duy Thiệu, Duy Thiệu sinh ra Duy Khoáng, Duy Khoáng lấy vợ người hương Bố Vệ huyện Ðông Sơn sinh ra Duy Bang. Khi Lê Trung Tông mất, không có con nối ngôi, Thái sư Trịnh Kiểm cùng các đại thần tìm được Duy Bang đang sống ở hương Bố Vệ (Phía Nam thành phố Thanh Hoá), đón về lập làm vua, khi đó ông đã 25 tuổi.
 
Khi Trịnh Kiểm còn sống, mọi quyền hành trong triều đều do Trịnh Kiểm quyết định, vua chỉ việc nghe theo. Các trận đánh lớn với quân Mạc đều do Trịnh Kiểm chia quân điều khiển. Ngay cả khi Lê Duy Hàn em vua ngầm có ý khác lẻn vào trong cung lấy trộm ấn báu, bị vua bắt, vua xá tội cho, đến khi Duy Hàn phạm tội giết người, vua cũng giao cho Thái sư Trịnh Kiểm toàn quyền xét xử.
 
Tháng 2 năm Canh Ngọ (1570), Trịnh Kiểm ốm nặng rồi mất. Anh em Trịnh Cối và Trịnh Tùng tranh giành nhau quyền bính. Lúc này tình hình nhà Lê bị chia rẽ và suy yếu. Nhưng vua Lê Anh Tông đã trực tiếp điều hành, dàn xếp các mâu thuẫn này. Các tướng nhà Lê như Lê Cập Ðệ cũng tỏ ra có năng lực và lập được nhiều chiến công, chính bản thân Lê Anh Tông cũng nhiều lần cầm quân ra trận. Mặc dù Lê Anh Tông vẫn tín nhiệm và trao quyền hành cao nhất cho Trịnh Tùng tước Trưởng quận công nắm giữ binh quyền nhưng nhiều lần vua vẫn tự làm đô tướng thống đốc đại binh đem quân cùng Trịnh Tùng ra đánh nhà Mạc ở phía Bắc. Quan hệ giữa vua và chúa có phần hoà thuận, song tháng 3 năm Nhâm Thân (1572), Lê Cập Ðệ nhằm có ý khác, rủ Trịnh Tùng đi thuyền ra giữa sông mưu giết, Trịnh Tùng biết được, nên việc không xong. Từ đấy hai nhà thù oán nhau, bên ngoài giả cách hiệp sức với nhau để đánh Mạc, bên trong đều ngó nhau, đề phòng thích khách. Sau đó Trịnh Tùng lập mưu giết Lê Cập Ðệ. Một số quần thần như Cảnh Hấp và Ðình Ngạn nói với vua rằng: Tả tướng nắm binh quyền to như vậy, bệ hạ khó lòng đứng được. Vua nghe nói thế vừa sợ, vừa ngờ, bèn ban đêm chạy ra ngoài cùng bốn hoàng tử đóng ở thành Nghệ An. Trịnh Tùng cùng với bề tôi lập con thứ 5 của vua Anh Tông là Duy Ðàm lên ngôi và sai Nguyễn Hữu Liên đi đón vua cũ. Khi về đến Lôi Dương (Thanh Hoá), Anh Tông bị giết chết.
 
Như vậy Lê Duy Bang ở ngôi 16 năm, thọ 42 tuổi, đặt niên hiệu 3 lần: Thiên Hựu (1557), Chính Trị (1558-1571) và Hồng Phúc (1572-1573).

 ♦ Lê Thế Tông (1573-1599): 
 
Niên hiệu:
- Gia Thái (1573-1577);
- Quang Hưng (1578-1599).
 
Vua Anh Tông có 5 người con trai, bốn người anh đã chạy cùng vua cha vào Nghệ An, còn lại Duy Ðàm là con trai thứ 5, sinh tháng 11 năm Ðinh Mão (1567), được nuôi ở xã Quảng Thị huyện Thuỵ Nguyên. Khi Anh Tông chạy ra ngoài, Duy Ðàm còn thơ ấu không đi theo được. Tả tướng Trịnh Tùng lập lên nối ngôi, mới 7 tuổi. Trịnh Tùng cho tìm danh nho vào dạy học cho vua, vua học ngày càng tấn tới, hiểu biết rộng cả việc trong sách vở và việc ngoài đời.
 
Tháng 8 năm Canh Thìn (1578), vua cho khôi phục lệ thi Hội để lựa chọn nhân tài, cho Nguyễn Văn Giai và 3 người nữa đỗ tiến sĩ xuất thân, Lê Quang Hoa và một người nữa đỗ đông tiến sĩ xuất thân.
 
Sau gần 50 năm chiến tranh Nam Bắc triều, với trên 38 trận đánh lớn nhỏ, hàng vạn dân lành bị sung lính và bị đẩy vào các cuộc tàn sát khủng khiếp. Có những trận mỗi bên quân số lên đến 10 vạn người. Hai bên giằng co khá quyết liệt. Ðến năm Tân Mão (1591), tiết chế Trịnh Tùng mở một cuộc hành binh lớn đánh trận quyết định ở Ðông Kinh, bắt được Mạc Mậu Hợp, chiếm lại được kinh thành. Tháng 2 năm Quý Tỵ (1593), sau khi sửa sang lại được kinh thành, cung điện, Trịnh Tùng cho đón vua Lê từ hành cung Vạn lại (Thanh Hoá) ra kinh thành Thăng Long (Ðông Kinh). Ngày 16 tháng 4 năm Quý Tỵ (1593) vua lên chính điện coi chầu, trăm quan đến chào mừng, đánh dấu sự nghiệp Trung Hưng của nhà Lê đã hoàn thành. Vấn đề đặt ra tiếp theo là công việc ngoại giao với nhà Minh. Sau nhiều cố gắng ngoại giao, đặc biệt là tài đối đáp và thơ phú của Phùng Khắc Khoan và phái bộ sang Yên Kinh, năm Mậu Tuất (1598), vua Minh phong cho Lê Duy Ðàm là An Nam đô thống sứ, sắc phong và ấn bạc được sứ nhà Minh trực tiếp đưa sang.
 
Công cuộc Trung Hưng đã hoàn thành, lại được các quan thiên triều trọng vọng. Trịnh Tùng tự xưng làm Ðô nguyên suý Tổng quốc chính thượng phụ Bình An Vương và định lệ cấp lộc cho vua Lê chỉ được thu thuế một ngàn xã, cấp cho 5.000 lính làm quân túc vệ, 7 con voi và 20 chiếc thuyền rồng. Còn lại quyền hành trong nước đều do Trịnh Vương toàn quyền quyết định, vua chỉ ngồi chắp tay không làm gì chỉ giữ đại cương, Từ đây thực sự bắt đầu thời kỳ mà sử gọi là Vua Lê chúa Trịnh.
 
Ngày 24/8 năm Kỷ Hợi (1599), vua băng hà, thọ 33 tuổi, ở ngôi được 27 năm.

Trịnh - Nguyễn phân tranh

Nhà Hậu Lê từ khi Trung Hưng lên, con cháu vẫn giữ ngôi vua, nhưng quyền chính trị nằm cả trong tay họ Trịnh. Còn ở phía nam, từ sông Linh Giang trở vào là cơ nghiệp của họ Nguyễn. Tuy vậy, hai họ chỉ xưng chúa, chứ không xưng vua, và bề ngoài vẫn tôn phù nhà Lê.

 ♦ Lê Kính Tông (1600-1619): 


Niên hiệu: 
- Thuận Ðức (1600);
- Hoằng Ðịnh (1601-1619).
 
Vua Kính Tông huý là Duy Tân, là con thứ của Thế Tông. Khi vua Thế Tông băng hà, Bình An Vương Tịnh Tùng cùng với triều thần cho rằng thái tử (anh của Duy Tân) không thông minh, bèn lập con thứ là Duy Tân, khi đó mới 11 tuổi. Duy Tân được triều thần đưa lên ngôi ngày 27 tháng 8 năm Kỷ Hợi (1599), đại xá, đổi niên hiệu là Thuận Ðức, lấy năm Canh Tý (1600) làm năm Thuận Ðức thứ nhất.
 
Từ năm này, bước sang thế kỷ 17, tình hình chính trị trong nước chuyển biến theo một cục diện mới. Ở ngoài Bắc, về cơ bản họ Trịnh với tài năng quân sự và thái độ cứng rắn của Trịnh Tùng đã cơ bản dẹp tan được chính quyền nhà Mạc ở kinh đô và đồng bằng Bắc Bộ. Nhưng các dư đảng nhà Mạc thì vẫn nổi lên khắp các tỉnh trung du và miền núi Việt Bắc. Nhà Lê Trịnh vẫn phải nhiều lần phái những đội quân lớn do Thái phó Thanh quận cộng Trịnh Kháng và các thuộc tướng Nguyễn Văn Giai, Nguyễn Cảnh Kiên, Tạ Thế Phúc, Nguyễn Khải, Nguyễn Hắc, Nguyễn Duy Thì... đem quân đánh Mạc. Cũng vào thời này vấn đề tranh giành quyền lực và xung đột giữa họ Trịnh ở Ðàng ngoài và họ Nguyễn ở Ðàng trong bắt đầu đặt ra với việc Nguyễn Hoàng tự ý bỏ vào Thuận Quảng. Nhân cơ hội ấy dư đảng của nhà Mạc lại nổi lên. Trong tình hình đó, Vua Lê Kính Tông cùng với Trịnh Xuân (con thứ của Trịnh Tùng) mưu giết Trịnh Tùng nhưng không thành. Trịnh Xuân bị giam vào nội phủ, còn vua Kính Tông bị bức thắt cổ chết ngày 12 tháng 5 năm Kỷ Mùi. 
 
 ♦ Lê Thần Tông (1619-1643): 
 
Niên hiệu: 
- Vĩnh Tộ (1620-1628);
- Ðức Long (1629-1634);
- Dương Hoà (1635-1643).
 
Vua Thần Tông huý là Duy Kỳ, con trưởng của Kính Tông. Mẹ là Ðoan từ Hoàng thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trinh, con gái thứ của thượng phụ Bình An vương Trịnh Tùng, sinh Duy Kỳ vào ngày 19 tháng 11 năm Ðinh Mùi (1607). “Như vậy, Duy Kỳ là cháu ngoại của Bình An vương Trịnh Tùng. Khi vua Kính Tông bị buộc thắt cổ chết, Bình An vương tôn lập cháu ngoại của mình là Duy Kỳ lên làm vua, khi đó mới 12 tuổi” Duy Kỳ có tướng mạo đế vương: thông minh, học rộng, mưu lược sâu sắc, giỏi văn chương. Ðây cũng là một ông vua có quan hệ thật đặc biệt với nhà chúa, cùng với nhà chúa một nhà vui thuận êm ấm. 
 
Tháng 7 năm Quý Hợi (1623) nhân dịp Bình An vương Trịnh Tùng mất, Trịnh Xuân lại một lần nữa đem quân nổi lên định tranh ngôi chúa, vương thế tử Trịnh Tráng cùng vua đem quân về Thanh Hoá lo dẹp loạn.
 
Năm Canh Ngọ (1630) vua lấy con gái của Vương là Trịnh Thị Ngọc Trúc lập làm Hoàng hậu. Việc lấy Ngọc Trúc đã để lại tiếng xấu cho vua sau này. Chẳng là trước đó Ngọc Trúc đã lấy chú họ của vua là Cường quận công Lê Trụ, đã sinh ra được 4 người con, rồi Lê Trụ bị lỗi phải giam trong ngục, Vương lại đem Ngọc Trúc dâng vua, vua lấy vào cung. Triều thần như Trạng nguyên Nguyễn Thực, Nguyễn Danh Thế nhiều lần can vua, vua không nghe.
 
Tháng 1 năm Quý Mùi (1643) vua nhường ngôi cho con là Lê Duy Hiệu sau 25 năm làm vua, tự lên làm Thái thượng hoàng, còn Hoàng hậu họ Trịnh lên làm Hoàng thái hậu.
 
 ♦ Lê Chân Tông (1643-1649): 

Niên hiệu: 
- Phúc Thái;
- Khánh Ðức (1649-1652);
- Thịnh Ðức (1653-1657);
- Vĩnh Thọ (1658-1661);
- Vạn Khánh (1662)
 
Duy Hiệu được vua cha nhường ngôi từ lúc lên 13 tuổi, lấy hiệu là Chân Tông. Trong thời gian Chân Tông ở ngôi, có một việc đáng chú ý là vào năm 1646, vua Minh cho sứ thần sang phong cho Thái thượng hoàng làm An Nam quốc vương. Triều Lê Trung Hưng kể từ Lê Trang Tông đến đây mới được nhà Minh phong tước vương, trước đó chỉ phong An Nam đô thống sứ.
 
Năm Kỷ Mão (1649), ở ngôi được 7 năm, Duy Hiệu chết không có con nối, Thái thượng hoàng lại cầm chính, tiếp tục triều Lê Thần Tông.
 
Năm Nhâm Dần (1662), vua Thần Tông bị bạo bệnh, xuống chiếu đổi niên hiệu làm Vạn Khánh năm thứ nhất. Cũng nhân dịp này vua cho thay đổi ngôi Thái tử. Chẳng là trước đó vì chưa có con nối, vua phải lấy Duy Tào (con riêng của Hoàng hậu Trịnh Thị) làm Hoàng thái tử. Nhưng sau đó Thần Tông có con đặt tên là Vũ. Năm (1662), Nhâm Dần con đích là Duy Vũ đã lên 9 tuổi vua cho lập Duy Vũ làm Hoàng thái tử, phế Duy Tào làm thứ nhân, theo về họ mẹ.
 
Ngày 22 tháng 9 năm đó, vua băng hà. Như vậy vua Thần Tông nhà Lê là ông vua thứ hai sau Lê Thánh Tông có số năm trị vì dài tới 38 năm. Ông vua này trải 3 đời vương bên phủ chúa Trịnh: từ Bình An Vương Trịnh Tùng tới Thanh Vương (Trịnh Tráng) rồi đến Tây Vương Trịnh Tạc. Ðời bấy giờ cho vua Thần Tông là bậc vua giỏi, nhưng có chê ở hai điểm: chốn cung vi không có đế độ và mê hoặc phật giáo.
 
 ♦ Lê Huyền Tông (1663-1671): 

Niên hiệu: Cảnh Trị.
Huyền Tông tên là Duy Vũ, con Thần Tông, em của Chân Tông, khi Thần Tông mất Vũ mới lên 9 tuổi, Tây vương Trịnh Tạc theo di mệnh lập nên. Duy Vũ là con do Phạm Thị Ngọc Hậu, người làng Quả Nhuệ, huyện Lôi Dương (Thọ Xuân, Thanh Hoá) sinh ra.
 
Năm Ất Tỵ (1665), mặc dù mới 11 tuổi, nhà vua cũng sách lập chính cung Trịnh Thị Ngọc Áng làm hoàng hậu. Trịnh Thị Ngọc Áng là con thứ của Tây vương Trịnh Tạc. Khi vua lên ngôi đón vào trong cung, lấy làm Hoàng hậu.
 
Bấy giờ ở bên Trung Quốc, nhà Minh đã mất, nhà Thanh lên, tháng 3 năm Ðinh Mùi (1667) nhà Thanh sai sứ sang phong cho vua làm An Nam quốc vương. Vua Lê sai chánh sứ Lê Hiệu, phó sứ Dương Hạo và Ðồng Tồn Trạch sang nhà Thanh  nộp lễ cống hàng năm và tạ ơn việc tặng bạc lụa. Ðây là lần đầu tiên nước ta có quan hệ ngoại giao với triều Thanh.
Ở ngôi được 9 năm, ngày 15 tháng10 năm Tân Hợi (1671) vua băng hà, lúc này mới có 18 tuổi, không có con nối.
 
 ♦ Lê Gia Tông (1672-1675): 
 
Niên hiệu: 
Dương Ðức (1672-1673);
- Ðức Nguyên (1674-1675).
 
Vua huý là Duy Cối, con thứ của Thần Tông. Trước đấy, khi Thần Tông băng, Hoàng thái tử Duy Cối (có sách chép là Duy Khoái) mới lên 2 tuổi, vương Trịnh Tạc và vương thị là Trịnh Thị Ngọc Lung đón về nuôi ở trong vương phủ, dạy bảo, hun đúc, giúp nên đức tính. Khi Huyền Tông băng hà, không có con nối ngôi, Trịnh Tạc bèn xuống chỉ cho Tiết chế phủ và các đại thần văn võ trăm quan lập Hoàng đệ Lê Duy Cối lên ngôi vua, khi đó ông mới 11 tuổi. Vua làm lễ đăng quang vào ngày 19 tháng 11 năm Tân Hợi (1671) lấy niên hiệu Dương Ðức, tôn chính phi của vương là Trịnh Thị Ngọc Lung làm Quốc thái mẫu.
 
Năm Giáp Dần (1674) vua tôn phong thân mẫu là Lê Thị Ngọc Hoàn (quê ở xã Phúc Lộc, huyện Thuỵ Nguyên, Thanh Hoá) làm Chiêu Nghi.
 
Nhà vua diện mạo khôi ngô, thân thể vạm vỡ, tính khoan hoà, có độ lượng của một ông vua. Vua ở được 4 năm, mất lúc 15 tuổi, không có con nối.
 
 ♦ Lê Hy Tông (1676-1705): 

Niên hiệu: 
- Vĩnh Trị (1678-1680);
- Chính Hoà (1681-1705).
 
Lê Hy Tông có tên là Duy Cáp (có sách chép là Duy Hợp), là con thứ của Thần Tông và là em của Gia Tông. Khi Thần Tông qua đời, ông còn nằm trong bụng mẹ mới được 4 tháng. Thần Tông dặn dò Tây vương Trịnh Tạc bảo hộ, sau này cho Duy Cáp nối ngôi. Lúc Gia Tông chết Duy Cáp lên 13 tuổi, được Tây vương phò lên ngôi vua. Lấy ngày sinh làm “Thiên minh thánh tiết”. Nhà vua tuân giữ cơ nghiệp có sẵn, rũ tay áo mà hưởng cuộc thịnh trị. Kỷ cương thì chấn hưng, thưởng phạt thì nghiêm túc và công minh, phần nhiều các công khanh đều xứng đáng với chức vụ, trăm quan kính giữ phép tắc chế độ, nhân dân yên nghiệp làm ăn. Ðó là các năm dưới niên hiệu Vĩnh Trị (1676-1680) và Chính Hoà (1681-1704). Người đời bấy giờ ca ngợi là bậc nhất thời Trung Hưng. Tháng 4 năm Ất Dậu (1705), sau khi ở ngôi 30 năm, vua ban chiếu truyền ngôi cho Hoàng thái tử Lê Duy Ðường rời sang ở cung khác. Nhường ngôi rồi vua còn vui sống nhàn 12 năm nữa mới mất, thọ 54 tuổi.
 
 ♦ Lê Dụ Tông (1705-1728): 
 
Niên hiệu:
Vĩnh Thịnh (1706-1719);
- Bảo Thái (1720-1729).
 
Vua huý là Duy Ðường, con trưởng Lê Hy Tông, được nhường ngôi năm Ất Dậu (1705). Sau khi lên ngôi đổi niên hiệu là Vĩnh Thịnh.
 
Bấy giờ thừa hưởng cơ nghiệp thái bình, không xảy ra binh đao vì chiến tranh Trịnh - Nguyễn tạm dừng. Trong nước vô sự, triều đình có làm được nhiều việc. Pháp độ được đầy đủ, kỷ cương thi hành được hết. Xứ xa lạ thì dâng lễ vật tỏ lòng thành, Trung Quốc thì trả lại đất. Nhà vua giũ tay áo, ngồi ở trên, không phải khó nhọc mà mọi việc đâu ra đấy. Khi nói đến cuộc thịnh trị lúc bấy giờ người phải kể đến công lao giúp chính của chúa Trịnh Cương. Trịnh Cương cùng với các bồi tụng và tham tụng: Nguyễn Công Hãng, Lê Anh Tuấn, Nguyễn Công Cơ đều là người giúp việc rất đắc lực và liêm khiết, họ chủ trương cải cách trên nhiều lĩnh vực kinh tế-tài chính, thi cử, tổ chức hành chính, và quan lại... Nhưng các cải cách đó chưa thu được kết quả thì Trịnh Cương qua đời. Ngày 20 tháng 4 năm Kỷ Dậu (1729) nhà vua nhường ngôi cho Thái tử Duy Phương rồi ra ở cung Kiền Thọ, xưng là Thuận Thiên thừa vận Hoàng thượng, khi đó vua 49 tuổi. Như vậy vua Lê Dụ Tông làm vua được 24 năm, đặt niên hiệu hai lần: Vĩnh Thịnh (1705-1719) và Bảo Thái (1720-1729). Tháng Giêng năm Tân Hợi (1731) Thái thượng hoàng mất, thọ 52 tuổi.
  
 ♦ Lê Ðế Duy Phương - Hôn Ðức Công (1729-1732): 
 
Niên hiệu: Vĩnh Khánh Duy Phương làm vua được 3 năm, bị Trịnh Giang vu cho tư thông với vợ Trịnh Cương, phải bỏ, giáng xuống làm Hôn Ðức Công, rồi đến năm Nhâm Tý (1732) thì bị giết.
 
 ♦ Lê Thuần Tông (1732-1735): 
 
Niên hiệu: Long Ðức.
Sau khi Hoàng thái tử Lê Duy Phương được vua cha nhường ngôi, ban lời chiếu khá dài nói về công lao khai sáng của Lê Thái Tổ, công cuộc Trung Hưng và vai trò của các chúa Trịnh... rộng ban ân điển 5 điều cho thần dân cả nước. Nhưng ngôi vua của Lê Duy Phương không đứng vững, vì sau khi Trịnh Cương mất, Trịnh Giang lên nối nghiệp chúa thì tình hình lại thay đổi.
 
Nguyên do là, trước đó con trưởng của vua là Lê Duy Tường đã 28 tuổi, được ở ngôi đông cung đã được 10 năm, lẽ ra phải được truyền ngôi. Nhưng Duy Tường còn có một người em khác mẹ là Duy Phương, 19 tuổi, do chính phi Trịnh Thị (con gái Trịnh Cương) sinh ra. Trịnh Cương muốn bỏ nguời con cả để lập cháu ngoại của mình lên ngôi, mới quanh co làm ra lời ban phong quan, ban tước rồi ép vua Dụ Tông phải nhường ngôi cho Duy Phương. Duy Phương lên ngôi, ngay lập tức tôn mẹ là Trịnh Thị lên làm Hoàng thái hậu và lại tiếp tục lấy một chính phi họ Trịnh làm Hoàng hậu. Nhưng khi Trịnh Giang lên cầm quyền, muốn tỏ rõ uy quyền, Giang bỏ hết các phép tắc của vua. Các chính sách thuế khoá và tài chính mà Trịnh Cương cho thi hành từ các năm 1720-1730 đều bị huỷ bỏ. Về việc định ngôi vua cũng vậy, tháng 8 năm Nhâm Tý (1732) Trịnh Giang truất Thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trang xuống làm quận quân, vu cho nhà vua có tư tình với các cung phi của người khác, Trịnh Giang bắt ép vua ra ở cung riêng. Những thứ cung đốn cho vua dùng đều bị bớt xén đi, rồi truất vua xuống làm Hôn Ðức Công, dời đến một ngôi nhà bên ngoại thành, buộc phải thắt cổ chết vào tháng 9 năm Ất Mão (1735).
 
Giết vua rồi, Giang cho dẫn 12 người con của Dụ Tông vào phủ đường để xem mặt. Duy Tường là con trưởng đáng được lập làm vua. Giang liền sai viên quan hộ vệ Duy Tường đến cung Tứ Thọ, làm lễ cáo Thái Miếu và lập lên làm vua, tức là vua Thuần Tông.
 
Duy Tường lên ngôi đổi niên hiệu là Long Ðức, đại xá trong nước, tha bỏ thuế chiếu, tha những tiền nộp để chuộc tội còn thiếu chồng chất; viên quan nào bị lầm lỡ bị truất bãi đã lâu, đều  cho xem xét dừng lại. Nhưng Duy Tường làm vua không được lâu, chỉ bốn năm sau, vua mất, thọ 37 tuổi, quần thần dâng tôn hiệu là Thuần Tông Giản hoàng đế.
 
 ♦ Lê Ý Tông (1735-1740): 

Niên hiệu: Vĩnh Hựu.
Sau khi Thuần Tông Giản hoàng đế mất, Trịnh Giang cho lập Duy Thận, con thứ 11 của Dụ Tông, em của Thuần Tông lên ngôi. Mặc dù Thuần cũng có con đã 19 tuổi, nhưng Trịnh Giang cho rằng Duy Diên (con Thuần Tông) tuổi đã trưởng thành và nhận thấy Duy Thận là cháu ngoại bà Thái phi họ Vũ (mẹ của Trịnh Cương, bà của Trịnh Giang), trước kia vẫn nuôi nấng Thận ở trong phủ, thân cận yêu thương và có phần dễ kiềm chế hơn. Thế là Giang quyết định cho Duy Thận khi đó 17 tuổi lên nối ngôi. Bầy tôi trong triều không ai dám nói gì cả. Duy Thận lên ngôi lấy niên hiệu là Vĩnh Hựu.
 
Dưới thời cầm quyền của Trịnh Giang, tình hình trong nước lại mất ổn định. Giang là kẻ vô cùng bạo ngược, không việc gì là không làm: sát hại công thần, tự cho thi tiến sĩ ở phủ đường... giết vua nọ lập vua kia... Vì thế tháng 12 năm Mậu Ngọ (1738) một người tôn thất nhà Lê là Lê Duy Mật và Duy Quý (con Lê Dụ Tông), Duy Chúc (con Hy Tông) cùng một số quần thần bàn mưu đốt kinh thành nhưng việc không thành, họ phải vượt biển chạy vào Thanh Hoá. Giang cho quân đuổi theo nhưng không kịp. Sau vụ đó, Duy Mật bèn chiếm cứ miền thượng du vùng Tây Nam chống nhau với nhà Trịnh ròng rã 30 năm trời.
 
Từ ngày làm việc bạo nghịch giết vua, Trịnh Giang lấn quyền vua ngày càng quá quắt. Thêm vào đó lại chơi bời dâm dục không còn mức độ nào cả. Vì thế Giang bị mắc chứng bệnh kinh quý, sợ sấm sét. Bọn hoạn quan là Hoàng Công Phụ đánh lừa Giang: chúng đào đất làm cung thưởng trì dưới hầm cho Giang ở. Từ đó Giang không bước chân ra ngoài, Công Phụ cùng đồng đảng của hắn càng có dịp chuyên quyền, lũng đoạn triều chính. Các quan đại thần kế tiếp nhau người bị giết, người bị phạt. Chính sự trái ngược, thuế khoá nặng nề, lòng dân mong chóng nổi lên loạn lạc. Lúc ấy hàng loạt cuộc khởi nghĩa của nhân dân nổ ra ở khắp nơi: Vùng Hải Dương có Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ, Vũ Trác Oánh, ở vùng Sơn Nam có Hoàng Công Chất... họ đều lấy danh nghĩa “phò Lê”. Dân ở vùng Ðông Nam, người đeo bừa, người vác gậy đi theo, chỗ nhiều đến hơn vạn, chỗ nhỏ cũng hàng ngàn hàng trăm. Quân khởi nghĩa vây các cấp, các thành, triều đình không thể ngăn cấm được.
 
Trước tình hình đó. Trịnh thái phi là Vũ Thị (vợ Trịnh Cương, mẹ Trịnh Doanh) cho triệu Nguyễn Quý Cảnh và một số quần thần khuyên Trịnh Doanh đứng ra thay Trịnh Giang để trừ hoạn nạn trong cung phủ. Năm Canh Thân (1740) Trịnh Doanh lên thay Trịnh Giang, tháng 5 năm ấy Doanh ép vua truyền ngôi cho Duy Diên, con trưởng của Thuần Tông. Tôn nhà vua lên làm Thái thượng hoàng. Như vậy Ý Tông ở ngôi được 5 năm, khi nhường ngôi mới 21 tuổi. Nhường ngôi rồi Ý Tông đến ở điện Càn Thọ, được 19 năm chết, thọ 40 tuổi.
 
 ♦ Lê Hiển Tông (1740-1786): 

Niên hiệu: Cảnh Hưng.
Hiển Tông tên thật là Duy Diên, là Thái tử của vua Thuần Tông. Nhưng vì có chú là Duy Thận và Duy Mật khởi nghĩa chống họ Trịnh chuyên quyền, vì thế Duy Diên bị Trịnh Giang truất ngôi Thái tử và bị giam cầm từ lâu. Sau khi Trịnh Doanh lên thay ngôi chúa Trịnh của Trịnh Giang mới sai người thả Duy Diên và lập lên làm vua, ép vua Ý Tông phải nhường ngôi cho cháu dòng đích. Trong tờ chiếu nhường ngôi của vua Ý Tông có đoạn viết: “Nghĩ phương xa có nhiều kẻ mạnh, lòng càn rỡ, muốn cho trong ngoài bờ cõi được yên vui, thì chính là theo lễ nên tôn dòng con trưởng, để trọng tôn thống, mà thu phục lòng người”. Sau khi Ý Tông lên làm Thượng hoàng ra ở điện Càn Thọ, số xã dân cung phụng được lấy bằng 1/3 trong số chính phần của các vua Lê thời kỳ này.
 
Vua lên ngôi báu lúc mà trong nước gặp nhiều việc: bốn phương quân khởi nghĩa nổi lên liên tục không lúc nào yên. Nhưng nhờ có tài giúp đỡ của Minh Vương Trịnh Doanh nên 10 năm sau đất nước đã trở lại yên bình, dân yên cư lạc nghiệp, người bấy giờ cũng ca ngợi là thời thái bình. Phải nói rằng Lê Hiển Tông là ông vua trị vì lâu nhất lịch sử phong kiến nước ta. Số năm trị vì của ông lên tới gần nửa thế kỷ- 47 năm. Bí quyết của ông vua này là sống nhàn hạ và không quan tâm gì đến chính sự, mọi việc đều do nhà chúa quyết định từ Trịnh Doanh sau đến Trịnh Sâm. Dưới thời Doanh, vì Doanh tin vào phúc đức của nhà vua nên cố gắng tin lập và dựa vào.
 
Tháng Giêng năm Giáp Thân (1764) vua cho lập Duy Vĩ làm thái tử. Năm Ðinh Hợi (1767) Trịnh Doanh mất, Trịnh Sâm làm Nguyên soái tĩnh đô vương. Tháng 3 năm Kỷ Sửu (1769) Sâm truất ngôi Thái tử của Duy Vĩ rồi bắt giam vào ngục. Tháng 8 năm Kỷ Sửu (1769) Trịnh Sâm cho lập Duy Cận là con thứ của vua làm Thái tử.
 
Tháng 12 năm Tân Mão (1771) Sâm sai giết Thái tử Duy Vĩ, tháng Giêng năm Quý Mão (1783) lập Duy Khiêm làm Hoàng thái tôn, truất Duy Cận làm Sùng Nhượng công. Việc này do binh lính tâm phủ làm.

 ♦ Lê Mẫn Đế (1787-1789):  ♦ Lê Mẫn Ðế (1787-1789): 
 
Niên hiệu: Chiêu Thống.
Tên là Duy Khiêm (còn có tên Duy Kỳ), cháu đích của vua Hiển Tông, con của Thái tử đã mất Duy Vĩ. Duy Khiêm được quân tam phủ đưa từ nơi giam cầm về và Trịnh Khải, lập làm Thái tôn, truất ngôi Thái tử của Duy Cận. Trước khi vua Hiển Tông mất đã cho gọi thái tử Duy Khiêm vào trối lời truyền ngôi. Thái tử vừa lạy vừa khóc xin nhận mệnh. Lúc đó Nguyễn Huệ đã cưới công chúa Ngọc Hân. Ông có hỏi Ngọc Hân về việc các hoàng tử, công chúa rất khen Duy Cận là người tốt. Nguyễn Huệ muốn bàn luận lại việc lập người nối ngôi, triều đình lo sợ, không biết làm thế nào được, các người trong họ tông thất đều trách móc công chúa làm hại mưu kế lớn của xã tắc. Công chúa sợ, trở về xin với Nguyễn Huệ, Nguyễn Huệ nhận lời, bèn phò Thái tôn lên ngôi Hoàng đế, đổi tên là Duy Kỳ. Lấy niên hiệu là Chiêu Thống. Khi Nguyễn Nhạc ra Thăng Long, Lê Chiêu Thống đem trăm quan thân hành đón tiếp ở ngoài cửa Nam Giao. Sau khi cùng Nguyễn Nhạc đàm đạo việc nước vua Lê xin cắt đất cho Nguyễn Nhạc để khao quân. Nguyễn Nhạc từ chối. Rồi Nguyễn Nhạc cùng vua Lê ước hẹn đời đời làm láng giềng hoà hiếu.
 
Nhưng khi Nguyễn Nhạc cùng Nguyễn Huệ rút quân về Phú Xuân thì hào mục ở các nơi lại nổi dậy cát cứ, họ Trịnh cùng Trịnh Bồng trở lại Thăng Long tự lập làm nguyên soái và lấn át nhà vua như trước, khiến cho triều đình rối ren, chém giết lẫn nhau. Nguyễn Huệ lại phải kéo quân ra Bắc dẹp nội loạn, chiêu tập các cựu thần văn võ nhà Lê, lấy Sùng nhượng công Lê Duy Cận đứng Giám quốc và để Ngô Văn Sở quản lĩnh binh chúng rồi kéo quân về Nam.
 
Ðể khôi phục lại Lê Chiêu Thống, tháng 7 năm Mậu Thân (1788) Hoàng thái hậu nhà Lê sang nhà Thanh xin quân cứu viện. Sau khi lấy lại được Thăng Long, dựa vào thế quân thanh vua Lê đã trả thù tàn bạo những người đã theo Tây Sơn, vì thế dân tình trong kinh ngoài trấn đều chán nản, rời rạc và lo sợ.
 
Mồng 1 Tết năm Kỷ Dậu (1789), quân đội Tây Sơn do Hoàng đế Quang Trung trực tiếp chỉ huy kéo ra Bắc đánh tan quân xâm lược Mãn Thanh. Các tướng nhà Thanh sống sót chạy về nước kéo theo vua bán nước Lê Chiêu Thống cùng bầy tôi 25 người.
 
Nhà Lê mất. Sau 5 năm sống lưu vong nhục nhã và phẫn uất trên đất Thanh, tháng 10 năm Quý Sửu (1793), Lê Chiêu Thống chết ở Yên Kinh (Trung Quốc), thọ 28 tuổi. Tháng 8 năm Giáp Tý (1804) triều Nguyễn đã cho đưa thi hài Lê Chiêu Thống về nước, chôn tại lăng Bàn Thạch. Trên bài vị thờ tại lăng đề là Nghị hoàng đế.
 
Tháng 2 năm Giáp Thân (1884) niên hiệu Kiến Phúc thứ nhất nhà Nguyễn truy đặt tên thuỵ cho Lê Chiêu Thống là Mẫn đế. Ðây là ông vua cuối cùng của triều Lê
 
Như vậy nhà Lê Trung Hưng từ Trang Tông đến Chiêu Thống trải 18 đời và 256 năm trị vì.
 
Nhà Lê Trung Hưng tồn tại song song với nhà Mạc từ 1533 đến 1592 và với Trịnh-Nguyễn từ 1592 đến 1789. Ðây là giai đoạn của nạn nội chiến Nam-Bắc triều và Trịnh-Nguyễn phân tranh gây nên bao cảnh đau thương thảm khốc trong nhân gian.